Thứ Năm, 7 tháng 5, 2015

Một số hình dạng đặc trưng của vi khuẩn

Vi khuẩn có nhiều hình dạng khác nhau: Cầu khuẩn, trực khuẩn, phẩy khuẩn, xoắn khuẩn và xoắn thể.

1. Cầu khuẩn (Coccus)

Coccus, số nhiều là cocci, từ chữ Hy Lạp là Kokkys (quả mọng), có nghĩa là loại vi khuẩn này có hình thái giống như quả mọng.
Cầu khuẩn là những vi khuẩn có dạng hình cầu, tuy nhiên có loại không thật giống với hình cầu, thường có hình bầu dục như lậu cầu khuẩn Neisseria gonohoeae, bắt màu Gram âm hoặc có dạng hình ngọn lửa nến như Streptococcus pneumoniae, bắt màu Gram dương. Kích thước của cầu khuẩn thay đổi trong khoảng 0,5 - 1 mm (1 mm =10-3 mm). Tùy theo vị trí của mặt phẳng phân cắt và đặc tính rời hay dính nhau sau khi phân cắt mà cầu khuẩn được chia thành các loại sau đây:
Đơn cầu khuẩn (Micrococcus): Thường đứng riêng rẽ từng tế bào một, đa số sống hoại sinh trong đất, nước, không khí như: M. agillis, M. roseus, M. luteus.
Song cầu khuẩn (Diplococcus): Cầu khuẩn được phân cắt theo một mặt phẳng xác định và dính với nhau thành từng đôi một, một số loại có khả năng gây bệnh như lậu cầu khuẩn gonococcus.
Liên cầu khuẩn (Streptococcus): cầu khuẩn phân cắt bởi một mặt phẳng xác định và dính với nhau thành một chuỗi dài. Streptococcus lactis vi khuẩn lên men lactic, Streptococcus pyogenes liên cầu khuẩn sinh mủ.
Trong chi này còn có loại liên song cầu khuẩn, tức là song cầu khuẩn tập trung từng đôi một thành chuỗi dài.
Liên cầu khuẩn có trong đất, nước không khí, ký sinh trên niêm mạc đường tiêu hoá, hô hấp của người và động vật, một số loại có khả năng gây bệnh. Chiều dài của liên cầu phụ thuộc vào môi trường. Trong bệnh phẩm liên cầu xếp thành chuỗi ngắn 6-8 đơn vị, trong môi trường lỏng 10-100 đơn vị, môi trường đặc hình thành chuỗi ngắn.
Tứ cầu khuẩn (Tetracoccus): Cầu khuẩn phân cắt theo hai mặt phẳng trực giao và sau đó dính với nhau thành từng nhóm 4 tế bào, tứ cầu khuẩn thường sống hoại sinh nhưng cũng có loại gây bệnh cho người và động vật như Tetracoccus homari.
Bát cầu khuẩn (Sarcina): Cầu khuẩn phân cắt theo 3 mặt phẳng trực giao và tạo thành khối gồm 8, 16 tế bào. Hoại sinh trong không khí như Sarcina urea có khả năng phân giải ure khá mạnh. Sarcina putea, Sarcina aurantica.
Tụ cầu khuẩn (Staphylococcus): Phân cắt theo các mặt phẳng bất kỳ và dính với nhau thành từng đám như hình chùm nho, hoại sinh hoặc ký sinh gây bệnh cho người và gia súc, nói chung cầu khuẩn không có tiên mao roi nên không có khả năng di động, khi nhuộm màu đa số cầu khuẩn bắt màu Gram dương. Đa số sống hoại sinh một số gây bệnh như Staphylococcus aureus - tụ cầu vàng.

2. Trực khuẩn (Bacillus, Bacterium)

Trực khuẩn là tên chung để chỉ những vi khuẩn có dạng hình que, hình gậy, kích thước của vi khuẩn khoảng 0,5-1 x 1-4mm, có những chi thường gặp như:
Bacillus (Bac): Là trực khuẩn Gram dương, sống yếm khí tuỳ tiện, sinh nha bào, chiều ngang của nha bào không vượt quá chiều ngang của tế bào vi khuẩn, do đó khi vi khuẩn mang nha bào vẫn không thay đổi hình dạng. Ví dụ: Trực khuẩn gây bệnh nhiệt thán Bacillus anthracis, trực khuẩn cỏ khô Bacillus subtillis. Bacillus subtillis   là một trực khuẩn có lợi trong hệ vi khuẩn đường ruột, chúng ức chế sự phát triển các vi sinh vật có hại đối với đường tiêu hoá.
Bacterium: Là trực khuẩn Gram âm, sống hiếu khí tuỳ tiện không sinh nha bào, thường có tiên mao ở xung quanh thân, có nhiều loại Bacterium gây bệnh cho người và gia súc như, Salmonella, Escherichia, Shigella, Proteus.
Clostridium: Là trực khuẩn Gram dương, hình gậy hai đầu tròn kích thước khoảng 0,4 -1 x 3 - 8 mm,   sinh nha bào, chiều ngang của nha bào thường lớn hơn chiều ngang của tế bào vi khuẩn, nên khi mang nha bào vi khuẩn bị biến đổi hình dạng như hình thoi, hình vợt, hình dùi trống.
Clostridium là loại vi khuẩn kỵ khí bắt buộc, có nhiều loại gây bệnh cho người và gia súc như: Clostridium tetani, Clostridium chauvoei (ung khí thán), Clostridium pasteurianum (vi khuẩn cố định nitơ). Clostridium tetani nha bào có trong đất và những nơi ẩm ướt dơ bẩn, nha bào tồn tại rất lâu, nếu chúng xâm nhập vào vết thương sẽ phát triển, sinh độc tố thần kinh gây co cứng gọi là bệnh uốn ván.
Corynebacterium: Vi khuẩn không sinh nha bào, có hình dạng và kích thước thay đổi khá nhiều tùy từng giống, khi nhuộm màu vi khuẩn thường tạo thành các đoạn nhỏ bắt màu khác nhau ví dụ: Corynebacterium diphtheriae (gây bệnh bạch hầu) bắt màu hai đầu hình quả tạ, Erysipelothrix rhusiopathiae gây bệnh đóng dấu lợn, gây viêm da và tổ chức dưới da.

3. Cầu trực khuẩn (Cocco-Bacillus)

Là những vi khuẩn trung gian giữa cầu khuẩn và trực khuẩn, vi khuẩn có hình bầu dục, hình trứng, kích thước khoảng 0,25-0,3 x 0,4 -1,5 mm. Một số bắt màu tập trung ở hai đầu (vi khuẩn lưỡng cực). Ví dụ: vi khuẩn gây bệnh tụ huyết trùng: Pasteurella. Vi khuẩn gây sẩy thai truyền nhiễm Brucella.

4. Phẩy khuẩn (Vibrio)

Là tên chung để chỉ những vi khuẩn hình que uốn cong lên, có hình giống hình dấu phẩy, hình lưỡi liềm, đứng riêng rẽ hay nối với nhau thành hình chữ S hay số 8, có tiên mao. Phần lớn sống hoại sinh, có một số loại gây bệnh như Vibrio cholerae.

5. Xoắn thể (Spirillum)

Là nhóm vi khuẩn Gram âm hiếu khí hoặc vi hiếu khí, di động, có dạng xoắn, xoắn khuẩn gây bệnh thuộc chi Campylobacter. Trước đây Campylobacter được xếp vào chi Vibrio về sau chúng được xếp vào nhóm Spirillum vì các vi khuẩn này khác biệt với nhóm phẩy khuẩn nhờ số vòng xoắn đầy đủ. Về hình thái xoắn thể khác với nhóm xoắn khuẩn (Spirochaeta) do số vòng xoắn ít hơn, vòng xoắn của xoắn thể không làm cho đường kính cơ thể tăng lên, xoắn thể không có cấu trúc sợi trục chu chất và lớp bao ngoài, vách tế bào cứng và di động mạnh nhờ có lông roi ở cực tế bào.
Campylobacter là những vi khuẩn Gram âm, có dạng chữ S hay dấu phẩy, có một lông roi ở một cực hoặc hai cực, di động theo kiểu vặn nút chai, kích thước 0.2-0.8 x 0.5 –5.0 mm nhưng đôi khi có dạng cầu khuẩn, thông thường không có giáp mô, tuy có khi C. jejuni lại thấy có giáp mô.        

2.1.6. Xoắn khuẩn (Spirochaeta)

Cấu trúc cơ bản của xoắn khuẩn là màng tế bào chất của tế bào kéo dài được bọc trong   một màng phức hợp bên ngoài vách tế bào tạo thành ống tế bào chất, phía ngoài được bao bọc bởi lớp vỏ ngoài hay lớp bao nhầy. Khoảng không gian giữa màng tế bào chất và lớp vỏ ngoài này được gọi là không gian chu chất. Có tiên mao xuất phát từ hai cực tế bào, những sợi tiên mao này hướng vào giữa tế bào. Bắt màu Gram âm, nhưng thường khó bắt màu nên để quan sát xoắn khuẩn thường sử dụng các phương pháp nhuộm nhiễm bạc, hoặc quan sát tiêu bản sống dưới kính hiển vi nền đen.
Xoắn khuẩn di động uốn khúc, vặn xoắn, uốn lượn, sinh sản bằng cách phân chắt theo chiều ngang.   
Leptospira canicola   theo nước và thức ăn vào máu, gan, thận gây loạn chức năng của các cơ quan này dẫn đến xuất huyết và vàng da.
Bảng 1. So sánh xoắn thể và xoắn khuẩn


Điểm so sánh
Xoắn thể
Xoắn   khuẩn
Số vòng xoắn
Số vòng xoắn ít hơn
Số vòng xoắn lớn hơn 2
Đặc điểm vòng xoắn
Không làm cho đường kính cơ thể tăng lên
Làm cho đường kính cơ thể   tăng lên
Nhuộm Gram
Âm
Gram âm, khó bắt màu, nhuộm nhiễm bạc
Lông roi
ở một cực hoặc ở hai cực
Xuất phát từ hai cực tế bào hướng vào giữa
Di động
Nhờ lông roi ở cực tế bào
Di động uốn khúc, vặn xoắn, uốn lượn
Cấu trúc
Không có cấu trúc sợi trục chu chất và lớp bao ngoài
Có vách tế bào cứng
Có cấu trúc sợi trục chu chất và lớp bao ngoài, màng tế bào chất kéo dài
Không có   vách cứng, chỉ là lớp màng hay bao nhầy