Vi sinh vật học là một ngành học rất lâu đời. Ngành này đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.
1. Giai đoạn trước khi phát minh ra
kính hiển vi
Từ thời thượng cổ người ta đã biết ủ phân,
trồng xen cây họ đậu với cây trồng khác, ủ men, nấu rượu,... nhưng chưa giải
thích được bản chất của các biện pháp.Trong quá trình định canh con người đã
thấy được tác hại của bệnh cây. Đối với bệnh ''rỉ sắt'' ở thời Aristote người
ta xem như là do tạo hóa gây ra. Ở Hy Lạp bấy giờ người ta cho rằng cây bị bệnh
là do đất xấu, phân xấu, gây ra khí hậu không ôn hoà nhưng chủ yếu là do trời
đất. Trung Quốc vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên trong quyển ''Ký thắng
Chi thư'' đã ghi: muốn cho cây tốt phải dùng phân tằm, không có phân tằm thì
dùng phân tằm lẫn tạp cũng được. Trong sách này cũng đã ghi nhận trồng xen cây
họ đậu với các loại cây trồng khác.
Trong các tài liệu ''Giáp cốt'' của Trung
Quốc cách đây 4000 năm đã thấy đề cập đến kỹ thuật nấu rượu. Người ta nhận thấy
trong quá trình lên men rượu có sự tham gia của mốc vàng, như vậy vi sinh vật
đã được ứng dụng vào sản xuất, phục vụ cuộc sống từ rất lâu, nhưng người ta
chưa hiểu được bản chất của vi sinh vật, mãi đến khi kính hiển vi quang học ra
đời, những hiểu biết về vi sinh vật dần dần được phát triển, mở ra trước mắt
nhân loại một thế giới mới, thế giới của những vi sinh vật vô cùng nhỏ bé nhưng
vô cùng phong phú.
2. Giai đoạn sau khi phát minh ra kính hiển vi
Leewenhoek
là người đầu tiên phát hiện ra vi
sinh vật nhờ phát minh ra kính hiển vi. Ông là một thương nhân buôn vải, muốn
tìm hiểu cấu trúc của sợi vải ông đã chế tạo ra các thấu kính và lắp ráp chúng
thành một kính hiển vi có độ phóng đại 160 lần, Ông đã quan sát nước ao tù,
nước ngâm các chất hữu cơ, bựa răng,... Leewenhoek nhận
thấy ở đâu cũng có những sinh vật nhỏ bé. Rất ngạc nhiên trước những hiện tượng
quan sát được ông viết ''Tôi thấy trong bựa răng của miệng của tôi có rất nhiều
sinh vật tý hon hoạt động, chúng nhiều hơn so với vương quốc Hà Lan hợp nhất''.
Phát minh của Leewenhoek củng cố quan niệm về
khả năng tự hình thành của vi sinh vật. Thời gian này người ta cho rằng sinh
vật quan sát được là từ các vật vô sinh, thịt, cá sinh ra dòi và sau đó người
ta cho ra đời thuyết tự sinh (hay thuyết ngẫu sinh).

2.3. Giai đoạn vi sinh vật học thực nghiệm với
thời
Luois Pasteur
Đến thế kỷ XIX cùng với sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản, các ngành khoa học kỹ thuật nói chung và vi sinh vật học nói
riêng, phát triển mạnh mẽ, nhiều nhà khoa học đã quan sát và nghiên cứu về một
số vi sinh vật gây bệnh và sáng tạo ra một số phương pháp mới để nghiên cứu về
vi sinh vật. Đóng góp cho sự phát triển của vi sinh vật ở giai đoạn này phải kể
đến nhà bác học người Pháp Pasteur (1822-1895). Với công trình nghiên cứu của
mình ông đã đánh đổ học thuyết tự sinh, nhờ chế tạo ra bình cổ ngỗng.
Ông đã chứng minh thuyết tự sinh là không đúng
bằng các thí nghiệm sau:
TN1Thí nghiệm 1: Dùng một cái bình chứa
nước thịt đun sôi, để nguội sau một thời gian thì nước thịt đục, quan sát thấy
có vi sinh vật.
TN2Thí nghiệm 2: Tiến hành như thí
nghiệm thứ nhất nhưng sau đó ông bịt kín miệng bình lại, để một thời gian nước
thịt không bị vẩn đục. Lúc này mọi người phản đối, họ nói không có không khí
nên vi sinh vật không phát triển được, chưa thuyết phục được họ ông làm thí nghiệm
tiếp theo.
TN3Thí nghiệm 3: Ông uUốn
cổ bình giống như hình cổ ngỗng kéo dài ra cho thông với không khí, sau khi đun
sôi để một thời gian nước thịt không bị đục, khi đó người ta mới công nhận bác
bỏ thuyết tự sinh.
Pasteur là người đã đề xuất thuyết mầm bệnh,
thuyết miễn dịch học, là cơ sở để sản xuất vaccin trong phòng bệnh. Ông đã
chứng minh bệnh than ở cừu là do vi khuẩn gây ra và lan truyền từ con bệnh sang
con lành và ông đã tiến hành thí nghiệm tiêm phòng vaccin nhiệt thán cho cừu
năm 1881, ông chọn 50 con cừu khỏe mạnh, tương đồng, tiêm vaccin cho 25 con còn
25 con không tiêm vaccin, sau đó cường độc thì 25 con không tiêm vaccin bị chết
còn 25 con tiêm vaccin sống bình thường.
Thời đó hễ bị chó dại cắn là phải chết, rất
thương tâm trước cái chết của những người bị chó dại cắn, ông đã lao vào nghiên
cứu vaccin phòng và trị bệnh chó dại, thành công đầu tiên là cứu một bé trai
thoát khỏi phát bệnh dại. Sau thành công đó các nhà hảo tâm đã xây dựng viện
Pasteur tại pháp, sau này nhân rộng ra, đây là thành công lớn nhất của Pasteur
đối với nhân loại.
L. Pasteur tốt nghiệp sinh hóa, ông rất thành
công trong nghiên cứu nhưng gia đình ông rất bất hạnh, anh trai và các con của
ông đều chết do bệnh tật.
Mặc dầu L. Pasteur là người đầu tiên chứng
minh cơ sở khoa học của việc chế tạo vaccin nhưng thuật ngữ vaccin lại do một
bác sĩ nông thôn người anh Edward Jenner (1749-1823) đặt ra. Ông là người đầu
tiên nghĩ ra phương pháp chủng đậu bằng mủ đậu mùa bò cho người lành, để phòng
bệnh đậu mùa, một căn bệnh hết sức nguy hiểm cho tính mạng thời bây giờ.
3. Giai đoạn sau Pasteur và vi sinh
học hiện đại
Tiếp theo sau Pasteur là Koch (Robert Koch
1843-1910), là người có công trong việc phát triển các phương pháp nghiên cứu
vi sinh vật. Ông đề ra phương pháp chứng minh một vi sinh vật là nguyên nhân
gây ra bệnh truyền nhiễm mà ngày nay mọi nhà nghiên cứu bệnh học phải theo và
gọi là quy tắc Koch.
Ngày 24-3-1882, Koch công bố công trình khám
phá ra vi trùng gây bệnh lao và gọi nó là Mycobacterium tuberculosis,
là một bệnh nan y thời đó. Khám phá này mở đường cho việc chữa trị bệnh
ngày nay.
Kế đó học trò của Koch là Petri (Juliyes
Richard Petri, 1852-1921) chế ra các dụng cụ nghiên cứu vi sinh vật mà ngày nay
còn dùng tên của ông để đặt cho dụng cụ ấy: đĩa Petri. Ông cũng nêu ra các biện
pháp nhuộm màu vi sinh vật.
Ivanopxki, 1892 và Beijerrinck, 1896 là những
người phát hiện ra virus đầu tiên trên thế giới khi chứng minh vi sinh vật nhỏ
hơn vi khuẩn, qua được lọc bằng sứ xốp, là nguyên nhân gây bệnh khảm cây thuốc
lá.
Ngày nay vi sinh vật đã phát triển rất sâu với
hàng trăm nhà bác học có tên tuổi và hàng chục ngàn người tham gia nghiên cứu,
các nghiên cứu đã đi sâu vào bản chất của sự sống ở mức độ phân tử và dưới phân
tử, đi sâu vào kỹ thuật cấy mô và tháo lắp gen ở vi sinh vật và ứng dụng kỹ
thuật tháo lắp này để chữa bệnh cho người, gia súc, cây trồng và đang đi sâu
vào để giải quyết bệnh ung thư ở loài người.